🐳 Chùa Đền Và Đình Khác Nhau Như Thế Nào

Nhưng bây giờ thì khác, tâm nguyện Lương phi đã được đền bù, cha ta cũng sắp giao ra quân quyền rời khỏi triều đình, ta đã không còn giá trị lợi dụng với Hoàng thượng nữa, nếu không cho bà biết được sự thật, ta sợ bà lại đốc thúc ta đi tranh giành tình cảm, như Nếu vị nào tới chùa mà mang danh vị chức tước, quyền uy thế lực… thì cửa chùa tuy mở rộng đó mà lại khép kín. Ngược lại, với con người chỉ với một tấm lòng thành, chỉ một tấm lòng thành như vậy thôi mà cửa chùa luôn luôn mở rộng với mình. Đình là gì ? Nhưng không phải ai cũng biết ý nghĩa của các công trình này thờ ai. Trong bài viết này VnDoc sẽ chia sẻ cho các bạn một số thông tin để phân biệt sự khác nhau giữa đình, đền, chùa, miếu và các công trình tín ngưỡng khác. 10 ngôi chùa cầu may linh thiêng nhất cho năm mới Bạn đang đọc bài viết Đình và chùa khác nhau như thế nào? tại chuyên mục Phóng sự của Báo Nông Nghiệp Việt Nam. Mọi thông tin góp ý và chia sẻ, xin vui lòng gửi về hòm thư baonongnghiepdientu@gmail.com hoặc số điện thoại, Viber: 0369024447 . Tâm linh đóng vai trò vô cùng quan trọng trong đời sống của người Việt. Dọc dải đất hình chữ S có rất nhiều địa điểm thờ cúng như đình, đền, chùa, miếu, phủ, tuy nhiên không phải ai cũng hiểu được sự khác biệt về ý nghĩa cũng như nghi thức thờ cúng ở những địa điểm đó. Đền thờ là nơi dành cho mọi người đến để cầu nguyện và thờ phượng Thiên Chúa (2,27); nên không có phân biệt nào cả giữa hai người “một người là… người kia là”; họ chỉ khác nhau ở cuối dụ ngôn (c. 14). Với người Việt, am là nơi thờ Phật (Hương Hải am tức Chùa Thầy, Thọ Am tức Chùa Đậu – Hà Tây…) cũng có khi am là ngôi miếu nhỏ thờ thần linh của xóm làng – Vào thế kỷ XV (thời Lê sơ) là nơi ở tĩnh mịch để đọc sách làm thơ của văn nhân. Miếu thờ thần linh Tổ chức và điều hành; ĐGM tiền nhiệm; ĐGM đương nhiệm; GM & LM đã qua đời; Linh mục đoàn (cập nhật 01.05.2022) Giáo hạt giáo xứ; Thông báo. Tòa Giám mục; Ủy ban - Hội đoàn; Giáo hạt - Giáo xứ; Lich sinh hoat tai TTMV; Thông báo khác; Tin tức-sự kiện. Tin Giáo phận; Tin Giáo Trong đời sống văn hóa tâm linh của người Việt Nam có rất nhiều nơi thờ cúng khác nhau như đình, đền, chùa, miếu, phủ, quán, am,Nhưng không phải ai cũng hiểu được ý nghĩa của những địa điểm thờ cúng đó. Cho nên có rất nhiều người đi chùa mà không hiểu được ý nghĩa của việc đi chùa, ở gần nhà có ixQ1L9. 09/03/2019 Những ngày cuối năm cũng như đầu năm mới là lúc người dân nườm nượp đổ về các Chùa, Đền, Miếu… để thờ cúng cầu tạ ơn hoặc mong một năm mới an lành, nhiều tài lộc. Thế nhưng có một sự thật đáng buồn đó là có nhiều người đi Chùa nhưng lại mang cỗ mặn nào gà, nào lợn vì họ cho rằng đó là cách bày tỏ lòng thành bằng cách đưa những món ngon tới đây. Điều này xuất phát từ sự thiếu hiểu biết hoặc chưa hiểu hết ý nghĩa của việc đi chùa. Vì vậy, qua đây Phong Linh Stone giúp bạn đọc dễ dàng phân biệt được các địa điểm thờ cúng khác nhau, hiểu được ý nghĩa của việc thờ cúng và những nhân vật được thờ cúng trong đó. Chùa Là Gì ?Đinh Là Gì ?Đền Là Gì ?Miếu Là Gì ? Chùa Là Gì ? Chùa tiếng Hán Việt gọi là tự. Nó còn có những tên khác như Tăng Già Lam, Già Lam, Phạm Sát, Lan Nhã, Tùng Lâm, Tinh Xá, ạo Tràng… Có chỗ gọi là tự Viện. Tiếng Phạn tương đương với tự viện là Vihara. Chùa chủ yếu có 3 ban thờ, chính giữa là ban Thượng Trụ Tam Bảo ban Phật. Bên tay phải hướng mặt đối với ban Tam Bảo thông thường là ban Đức Thánh Ông. Bên tay trái hướng mặt đối Tam Bảo là ban Đức Thanh Hiền một số chùa có thể thay thế bằng các vị thánh tăng khác. Thiền Viên Trúc Lâm Tây Thiên Chùa là cơ sở hoạt động và truyền bá Phật giáo, là nơi tập trung sinh hoạt, tu hành và thuyết giảng đạo Phật của các nhà sư, tăng, ni. Mọi người kể cả tín đồ hay người không theo đạo đều có thể đến thăm viếng, nghe giảng kinh hay thực hành các nghi lễ Phật giáo. Ở một số nơi, chùa cũng là nơi cất giữ xá lị và chôn cất các vị đại sư. Về tác dụng của ngôi chùa, trước hết phải nói ngôi chùa mang chức năng là một cơ sở giáo dục. Lịch sử đã chứng minh, bất luận thời nào, ngôi chùa cũng đóng một vai trò then chốt quan trọng trong việc điều hướng giáo dục quần chúng nhân dân. Có thể nói chùa là cái nôi là cái lò rèn luyện chuyên đào tạo cho mọi người hướng thiện tu hành. Nơi đây nuôi dưỡng đời sống tâm linh và đóng góp xây dựng nếp sống đạo đức hiền hòa cao đẹp cho con người theo chiều hướng thánh thiện. Nhiều người lên Chùa, họ tìm đến Đức Phật để cầu xin cho mình những giá trị thực tiễn như tiền tài, may mắn, địa vị… trong cuộc sống mà quên đi rằng Đức Phật chỉ là là một nhà tư tưởng và họ mới chính là chủ thể quyết định chính cuộc sống của mình. Theo bài viết những hiểu lầm về Đạo Phật đã chỉ ra rằng, Đức Phật ở đây chỉ mang ý nghĩa như một nhà tư tưởng chứ không phải là một vị thần thánh. Không có chuyện Đức Phật ở chùa này lại thiêng hơn chùa kia, bản chất đều là cùng thờ một Đức Phật tư bi hỉ xả, phổ độ chúng sinh. Người đến thờ Phật để tu bản thân mình chứ không phải coi Đức Phật như một vị thánh đem đi điều không may mang đến điều tốt lành mà coi thánh nơi này thiêng hơn thánh nơi khác. Đi Chùa chỉ nên cúng đồ chay, việc cúng mặn, đốt vàng mã vô tình mắc tội mà không biết, thắp hương, công đức tiền lẻ bừa bãi… tất cả cũng đều bắt nguồn từ nhận thức sai lệch hoặc thiếu hiểu biết của người dân khi đến cửa Phật… Đinh Là Gì ? Đình là nơi thờ Thành hoàng của các làng, đồng thời là nơi hội họp, bàn việc của dân làng. Đình được coi là trung tâm sinh hoạt văn hóa gắn bó với một cộng đồng cư dân và mang đặc trưng của nền văn minh lúa nước Việt Nam. Thành hoàng là người có công với dân, với nước, lập làng, dựng ấp hay sáng lập nên một nghề ông tổ của nghề. Dưới các triều vua thường có sắc phong cho Thành hoàng, ghi nhận công lao của họ với đất nước. Thời xưa, đình làng là trụ sở hành chính của chính quyền tựu trung đủ mọi lề thói từ rước xách hội hè, khao vọng quan trên, đón người đỗ đạt, họp việc làng, xử kiện cùng những quy củ nhất định, có sự phân biệt chiếu trên, chiếu dưới. Đình Bảng Bắc Ninh Đình làng phát triển mạnh mẽ giai đoạn thế kỷ 16 – 18 với những cái tên như Thổ Hà, Trùng Thượng, Trùng Hà, Tây Đằng, Chu Quyến, Hoàng Sơn… Nhưng do tàn phá của chiến tranh, điều kiện môi trường, thiên nhiên, mưa nắng mà bóng dáng của những ngôi đình cổ truyền thống dần dần mai một. Để phân biệt chùa và đền với đình thì điểm khác biệt rõ rệt là địa điểm, xây chùa và đền chọn nơi tĩnh mịch, có khi u tịch, khuất lối còn đình làng chủ yếu lấy địa điểm trung tâm. Lý tưởng nhất là đình có địa điểm thoáng đãng nhìn ra sông nước. Nếu không có được ao hồ thiên nhiên thì dân làng có khi đào giếng khơi để có mặt nước phía trước đình cho đúng thế “tụ thủy” vì họ cho đó là điềm thịnh mãn cho làng. Đình thường cao ráo, thoáng mát, nóc có tượng đôi rồng lượn tranh lấy quả châu, trên các thanh xà ngang là những bức hoành phi câu đối. Nơi thiêng liêng nhất để thờ thần là điện thờ. Sân đình được lát gạch. Trước đình có hai cột trụ cao vút, trên đình được tạc hình con nghê. Trong đình, gian giữa có bàn thờ, thờ một vị thần của làng gọi là Thành hoàng. Một chiếc trống cái cũng được để trong đình để đánh vang lên theo nhịp ngũ liên thúc giục dân làng về đình tụ họp bàn tính công việc của làng. Đền Là Gì ? Nói đến Đền chúng ta có thể kể tên kha khá các tên như Đền Hùng, đền Kiếp Bạc, đền Sóc, đền Trần… thờ các anh hùng dân tộc. Đền Voi Phục, đền Bạch Mã, đền Kim Liên, đền Quán Thánh…thờ các vị thánh theo truyền thuyết dân gian. Đền là công trình kiến trúc được xây dựng để thờ cúng một vị Thánh hoặc những nhân vật lịch sử được tôn sùng như thần thánh. Ở Việt Nam, phổ biến nhất là các đền thờ được xây dựng để ghi nhớ công ơn của các anh hùng có công với đất nước hay công đức của một cá nhân với địa phương được dựng theo truyền thuyết dân gian. Đền Hai Bà Trưng – Mê Linh Ở Chùa chúng ta sẽ tụng Kinh còn ở đền, phủ là Hầu Đồng và hát chầu Văn. Tuy nhiên nghi lễ này chỉ do những Thanh Đồng tức những người có căn quả hợp để hầu Thánh và Mẫu. Theo tín ngưỡng thờ Mẫu thì Hầu Đồng chính là nghi lễ mà các Thanh Đồng được Thánh giáng đồng nhập xác thông qua các giá hầu để ban phát phúc, lộc cho mọi người. Bái trí trong đền thì thông thường ban ngoài cùng sẽ là ban tứ phủ công đồng có Ngọc Hoàng bệ hạ, Nam Tào, Bắc Đẩu và các quan trong tứ phủ, tam tòa trong đạo thơ Mẫu và thờ Thánh là tín ngưỡi bản địa của Việt Nam trong hậu điện mới thờ vị thánh, thần ngự tại đền. Người đến cúng đền nên tìm hiểu về danh tính, sắc phong, công đức và tiểu sử của vị thần, thánh ngự trong đền để kêu đúng danh tính của các ngài khi cúng lễ. Theo tín ngưỡng phong tục dân gian, sắp lễ tại đền thì có thể cúng hoa quả, bánh trái, chè thuốc, trầu cau, nhang đèn nến và lễ mặn chủ yếu cúng lễ mặn như rượu, xôi và thịt tại ban công đồng, sắp lễ tùy tâm không kể ít nhiều nhưng phải thành kính và sạch sẽ, đồ cúng tươi ngon hoa tươi, quả tốt. Miếu Là Gì ? Miếu là một dạng di tích văn hóa trong tín ngưỡng dân gian Việt Nam có quy mô nhỏ hơn đền. Miếu thường ở xa làng, yên tĩnh, thiêng liêng và là nơi thờ các vị thánh thần. Khi miếu phối hợp với thờ Phật thì được gọi là Am, ở Nam bộ gọi là Miễu. Đối tượng được thờ ở miếu rất đa dạng, thể hiện ở tên gọi của miếu – tên gọi theo đối tượng được thờ thường phiếm chỉ và tượng trưng. Khấn thế nào mới chuẩn khi đi lễ Đình, Đền Miếu, Phủ Ví dụ miếu Cô, miếu Cậu, miếu thờ thần núi gọi chung là miếu Sơn thần, miếu thờ thần nước gọi là miếu Hà Bá hoặc miếu Thủy thần. Miếu thờ thần đất gọi là miếu thổ thần hoặc thần Hậu thổ. Miếu Bà Chúa Xứ Núi Sam Miếu thường được xây trên gò cao, nơi sườn núi, bờ sông hoặc đầu làng, cuối làng, những nơi yên tĩnh để quỷ thần có thể an vị, không bị mọi sự ồn ào của đời sống dân sinh. Ở một số nơi, trong các ngày giỗ thần như ngày sinh, ngày hóa nhân thần, ngày hiện hóa thiên thần làng mở tế lễ, mở hội, nghinh rước thần từ miếu về đình. Tế lễ xong, lại rước thần về miếu yên vị. Miếu và đền về kiểu mẫu thì giống nhau, chỉ khác nhau về quy mô. Các miếu thường thờ các vị thần như miếu thổ thần, thủy thần, sơn thần, miếu cô, miếu cậu… Bài trí điện thờ trong Miếu đơn giản hơn trong đền, cũng có thể có 2 cung nhưng chủ yêu là 1 cung thờ, nếu kết hợp thờ Phật thì có ban Phật phía trước. Sắp lễ cúng Miếu cũng tương tự như cúng đền, riêng ban Phật chỉ cúng chay. Founder và CEO của Phong Linh Gems. Chuyên gia Đá Quý và Phong Thủy với 6 năm kinh nghiệm. Tôi hiểu rằng chỉ có am hiểu về đá quý và phong thủy thì mới mang đến những giá trị cho từng khách hàng. Chùa là gì?Đình là gì? Đình thờ ai?Đền là gì? Đền thờ ai?Miếu là gì? Miếu thờ ai?Nghè là gì? Nghè thờ ai?Điện thờ là gì?Phủ là gì?Quán là gì?Am là gì?Nhưng không phải ai cũng hiểu được ý nghĩa của những địa điểm thờ cúng đó. Cho nên có rất nhiều người đi chùa mà không hiểu được ý nghĩa của việc đi chùa, ở gần nhà có cái đình mà cũng không hiểu vì sao cái đình lại “mọc” lên ở đó. Bài viết này sẽ giúp độc giả dễ dàng phân biệt được các địa điểm thờ cúng khác nhau, hiểu được ý nghĩa của việc thờ cúng và những nhân vật được thờ cúng trong đó. Chùa là gì? Chùa là cơ sở hoạt động và truyền bá Phật giáo, là nơi tập trung sinh hoạt, tu hành và thuyết giảng đạo Phật của các nhà sư, tăng, ni. Mọi người kể cả tín đồ hay người không theo đạo đều có thể đến thăm viếng, nghe giảng kinh hay thực hành các nghi lễ Phật giáo. Ở một số nơi, chùa cũng là nơi cất giữ xá lị và chôn cất các vị đại sư. Đình là gì? Đình thờ ai? Đình là nơi thờ Thành hoàng của các làng, đồng thời là nơi hội họp, bàn việc của dân làng. Đình được coi là trung tâm sinh hoạt văn hóa gắn bó với một cộng đồng cư dân và mang đặc trưng của nền văn minh lúa nước Việt Nam. Thành hoàng là người có công với dân, với nước, lập làng, dựng ấp hay sáng lập nên một nghề ông tổ của nghề. Dưới các triều vua thường có sắc phong cho Thành hoàng, vì hầu hết Thành hoàng đều có công với nước. Dân làng, hay phường hội đi lập nghiệp nơi khác cũng xây miếu, đền thờ Thành hoàng quê gốc của mình tại nơi ở mới. Đền là gì? Đền thờ ai? Đền là công trình kiến trúc được xây dựng để thờ cúng một vị Thánh hoặc những nhân vật lịch sử được tôn sùng như thần thánh. Ở Việt Nam, phổ biến nhất là các đền thờ được xây dựng để ghi nhớ công ơn của các anh hùng có công với đất nước hay công đức của một cá nhân với địa phương được dựng theo truyền thuyết dân gian. Các đền nổi tiếng có thể kể đến ở nước ta như Đền Hùng, đền Kiếp Bạc, đền Sóc, đền Trần Nam Định… thờ các anh hùng dân tộc. Đền Voi Phục, đền Bạch Mã, đền Kim Liên, đền Quán Thánh…thờ các vị thánh theo truyền thuyết dân gian. Miếu là gì? Miếu thờ ai? Miếu là một dạng di tích văn hóa trong tín ngưỡng dân gian Việt Nam có quy mô nhỏ hơn đền. Đối tượng được thờ ở miếu rất đa dạng, thể hiện ở tên gọi của miếu – tên gọi theo đối tượng được thờ thường phiếm chỉ và tượng trưng. Ví dụ miếu Cô, miếu Cậu, miếu thờ thần núi gọi chung là miếu Sơn thần, miếu thờ thần nước gọi là miếu Hà Bá hoặc miếu Thủy thần. Miếu thờ thần đất gọi là miếu thổ thần hoặc thần Hậu thổ. Miếu thường được xây trên gò cao, nơi sườn núi, bờ sông hoặc đầu làng, cuối làng, những nơi yên tĩnh để quỷ thần có thể an vị, không bị mọi sự ồn ào của đời sống dân sinh. Ở một số nơi, trong các ngày giỗ thần như ngày sinh, ngày hóa nhân thần, ngày hiện hóa thiên thần làng mở tế lễ, mở hội, nghinh rước thần từ miếu về đình. Tế lễ xong, lại rước thần về miếu yên vị. Miếu nhỏ còn được gọi là Miễu cách gọi của người miền Nam. Nghè là gì? Nghè thờ ai? Một hình thức của đền miếu, thờ thần thánh. Đây là kiến trúc thường có mối quan hệ chặt chẽ với một di tích trung tâm nào đó. Nghè có khi thờ thành hoàng làng ở làng nhỏ, được tách ra từ làng gốc như Nghè Hải Triều Cẩm Giàng – Hải Dương. Nghè cũng có thể là một ngôi đền nhỏ của một thần trong xã nhằm thích ứng với dân sở tại để tiện việc sinh hoạt tâm linh khi ngôi đền chính khó đáp ứng được nhu cầu thờ cúng thường nhật, như Nghè ở Trường Yên là một kiến trúc phụ của đền vua Đinh. Hiện ngôi nghè cổ nhất được tìm thấy từ thế kỷ XVII. Điện thờ là gì? Điện là sảnh đường cao lớn, thường chỉ chỗ Vua Chúa ở, chỗ Thần Thánh ngự. Như vậy Điện thờ là một hình thức của Đền, là nơi thờ Thánh trong tín ngưỡng Tam tứ phủ. Tuy vậy quy mô của Điện nhỏ hơn Đền và Phủ, lớn hơn so với Miếu Thờ. Điện thông thường thờ Phật, thờ Mẫu, Công đồng Tam tứ phủ, Trần Triều và các vị thần nổi tiếng khác. Điện có thể của cộng đồng hoặc tư nhân. Trên bàn thờ thường có ngai, bài vị, khám, tượng chư vị thánh thần và các đồ thờ khác tam sơn, bát hương, cây nến, đài, lọ hoa, vàng mã,… Phủ là gì? Phủ là đặc trưng của tín ngưỡng thờ Mẫu tín ngưỡng bản địa của người Việt Nam. Một số nơi thờ tự ở Thanh Hóa gọi đền là phủ. Có thể hiểu Phủ là nơi thờ tự Thánh Mẫu khá sầm uất, mang tính chất trung tâm của cả một vùng lớn, vượt ra ngoài phạm vi địa phương, thu hút tín đồ khắp nơi đến hành hương tương tự như chốn Tổ của sơn môn đạo Phật. Ngôi phủ sớm nhất còn lại hiện biết là điện thờ các thần vũ nhân ở chùa Bút Tháp, có niên đại vào giữa thế kỷ XVII. Quán là gì? Quán là một dạng đền gắn với đạo Lão Đạo giáo. Vào các thế kỷ XI và XIV đạo Lão ở Việt nặng xu hướng thần tiên nên điện thờ thực chất giống như một đền thờ thần thánh. Sang tới thế kỷ XVI và XVII, sự khủng hoảng của Nho giáo đã đẩy một số nhà Nho và một bộ phận dân chúng quan tâm nhiều tới Lão giáo, và điện thờ đạo Lão có nhiều sự phát triển mới, với việc thờ cúng các thần linh cơ bản theo Trung Hoa. Đó là Tam thanh Nguyên Thủy Thiên Tôn, Linh Bảo Đạo Quân, Thái Thượng Lão Quân, Ngũ Nhạc mà nổi lên với Đông Phương Sóc và Tây Vương Mẫu, rồi Thánh Phụ, Thánh Mẫu. Cửu Diệu Tinh Quân Kim, Mộc, Thủy, Hỏa, Thổ, Mặt Trời, Mặt Trăng, Hồ phủ, Kế đô đồng thời trên chính điện cũng có cả tượng của Hoàng Quân giáo chủ Ngọc Hoàng. Có thể kể tới các quán điển hình như Hưng Thánh Quán, Lâm Dương Quán, Hội Linh Quán, Linh Tiên Quán… đều ở Hà Tây cũ nay là Hà Nội. “Thăng Long Tứ quán” bao gồm Chân Vũ quán tức đền Quán Thánh ở phố Quán Thánh; Huyền Thiên cổ quán nay là chùa Quán Huyền Thiên ở phố Hàng Khoai; Đồng Thiên quán nay là chùa Kim Cổ ở phố Đường Thành; Đế Thích quán nay là chùa Vua ở phố Thịnh Yên. Am là gì? Hiện được coi là một kiến trúc nhỏ thờ Phật. Gốc của Am từ Trung Quốc, được mô tả như ngôi nhà nhỏ, lợp lá, dùng làm nơi ở của con cái chịu tang cha mẹ, về sau đổi kết cấu với mái tròn, lợp lá, làm nơi ở và nơi đọc sách của văn nhân. Từ đời Đường, Am là nơi tu hành và thờ Phật của ni cô đặt trong vườn tư gia. Với người Việt, Am là nơi thờ Phật, cũng có khi am là ngôi miếu nhỏ thờ thần linh của xóm làng – Vào thế kỷ XV thời Lê sơ là nơi ở tĩnh mịch để đọc sách làm thơ của văn nhân. Miếu thờ thần linh ở các làng hoặc miếu cô hồn ở bãi tha ma cũng gọi là Am. Tìm hiểu về văn hóa tâm linh của người Việt từ xưa tới nay. Phong tục tập quán, tín ngưỡng Phật giáo, Công giáo, Tin lành, Đạo Mẫu. Theo nhà nghiên cứu Lý Khắc Cung thì đình nằm ở một không gian trung tâm, rộng lớn và có phong cảnh đẹp của làng quê Việt Nam. Có ngôi đình của làng và cũng có ngôi đình chung cho nhiều xã. Từ giữa đời Trần mọi sinh hoạt chính trị, kinh tế, xã hội đều diễn ra ở đình. Đình còn là nơi nghỉ ngơi, dừng chân của Vua, quan khi vi hành, tuần du. Đình là nơi thờ cúng Thành Hoàng, là nơi thực thi lệ làng thu thuế, xét xử, khao vọng, ngả vạ…. Lễ Tết, hội hè, diễn xướng đều thực hiện ở đình và sân đình. Đình là nơi nhân dân giao tiếp, gặp gỡ, trao đổi kinh nghiệm làm ăn. Đình là một tập hợp kiến trúc mở, không có tường bao quanh. Nội thất và ngoại thất của đình được trang trí nguy nga, độc đáo. Nhiều đình có các bức tượng, phù điêu được khắc chạm công phu. Vào đình phải qua cổng tam quan và sân đình. Đình thường có các cột gỗ to; có cổng to, có bể nước mưa, có hòn non bộ. Đình thường có 3 gian dài chính tẩm là gian ở giữa, bên trong có bệ thờ, sau bệ thờ là hậu cung đặt tượng Thành Hoàng ngồi trên ngai sơn son thếp vàng. Mái đình thường lợp ngói âm dương, viên nọ ốp lên viên kia và bò lên nóc cao, có 4 góc cong vút với những ngọn đao trang trí. Hai bên đình có hai dãy nhà phụ để chứa kiệu bát cống, long đình, cờ, biển, trống, chiêng, quạt, các đồ lễ tế, rước xách… Còn có gian riêng gọi là nhà hậu dùng để cúng hậu. Có nơi trước mặt đình còn có kiến trúc nhỏ gọi là phương đình hoặc bái đình.. Những đình nổi tiếng ở nước ta là ở Đình Bảng, Chu Quyến, Tây Đằng, Triều Khúc, Kim Liên, Chèm… Theo thông tin trên mạng thì chùa là cơ sở hoạt động và truyền bá Phật giáo. Tuy nhiên, chùa Việt Nam ngoài thờ Phật còn thờ thần Chùa Thầy ở Hà Tây và Chùa Láng ở Hà Nội thờ Từ Đạo Hạnh và Lý Thần Tông, thờ tam giáo Phật – Lão – Khổng, thờ Trúc Lâm Tam tổ Để chỉ chùa thờ Phật, trong tiếng Việt còn có từ "chiền"... Một số người cho rằng từ "chiền" có thể có gốc từ cetiya của tiếng Pali hay caitya của tiếng Phạn, cả hai dùng để chỉ điện thờ Phật. Theo câu tục ngữ Việt Nam "đất vua, chùa làng", các ngôi chùa đa số là thuộc về cộng đồng làng xã. Xây chùa bao giờ cũng là một việc trọng đại đối với làng quê Việt Nam. Việc chọn đất xây chùa thường bị chi phối bởi quan niệm phong thuỷ. Xây dựng chùa, phải chọn đất tốt, ngày tốt, giờ tốt. Đất tốt là nơi bên trái trống không, hoặc có sông ngòi, ao hồ ôm bọc. Núi hổ hay tay hổ ở bên phải phải cao dày, lớp lớp quay đầu lại, hoặc có hình hoa sen, tràng phướn, long báu hoặc có hình rồng, phượng, quy, xà chầu bái. Đó là đất dương cơ ái hổ nền dương có tay hổ vậy. Nước thì nên chảy quanh sang trái. Nếu đảo ky, thì mạch nước lại vào ở phía trước. Trước mặt có minh đường hay không có đều được cả. Phía sau không nên có núi áp kề, thế là đất tốt...

chùa đền và đình khác nhau như thế nào